Tên di sản : Di tích lịch sử cách mạng Địa điểm nhà ông Nguyễn Đức Thuần (Tổng Thuần)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3283/QĐ-CT
Giới thiệu
Nhà ông Nguyễn Đức Thuần - nơi thành lập Uỷ ban cách mạng lâm thời huyện Quảng Xương nằm ở trung tâm làng Hà (thôn 2, xã Quảng Khê trong một không gian kiến trúc cao ráo, thoáng đãng ngoảnh mặt về hướng nam với hệ thống các xóm thôn được cấu trúc như những ô bàn cờ. Đó là hình ảnh của những làng Việt mà ta thường gặp ở đồng bằng và trung du bắc bộ Việt Nam. Đó cũng là một không gian sinh thái xanh, sạch bởi dòng Sông Lý cắt ngang qua phía Tây làng bốn mùa no nước đã làm cho cảnh vật toàn vùng trở nên sầm uất.
Tham quan di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Sân: là phần đất năm trước nhà có chiều dài 13,7m; rộng 17m; diện tích 229m2. Trước đây được lát gạch bát, nay chỉ còn là một nền đất. Trước sân là một con đường liên xóm tiếp giáp với sân không có hàng rào cây hoặc tường gạch ngăn cách, bởi vậy nhìn toàn cảnh của sân cũng như của nhà phản ánh một thực tế khu nhà ít được người chăm sóc, bảo vệ.
Nhà chính: có 5 gian, 4 vì kèo được cấu trúc “Vì kèo trụ trốn”. Nhà gồm 2 mái, mặt trước có mái hiên thông suốt 5 gian ngoài, còn hai gian chái được xây thêm tường đốc ra sát mái hiên đỡ tàu mái. Vật liệu xây dựng bao gồm gỗ lim, luồng, vôi vữa... Nền được lát gạch chỉ màu đỏ, đốc tường xây bằng gạch, mái lợp ngói mũi. Tổng quát phần khung nhà bao gồm: 6 cột cái, 6 cột quân, 4 cột hiên và hệ thống các xà dọc nối vì kèo. Tất cả các xà này cùng với hoành mái làm nhiệm vụ nối các vì kèo của ngôi nhà tạo nên một khung liên kết vững chắc.
Trong kết cấu vì kèo thì hai vì kèo giữa giống nhau về kiểu liên kết còn hai vì kèo bên lại cấu trúc theo một kiểu liên kết khác. Ở hai vì kèo bên được kết cấu theo kiểu “Vì kèo trụ trốn - kẻ chuyền”. Quan sát trên vì kèo: trên đỉnh là xà nóc (còn gọi là Thượng lương) được tỷ lực trên một đấu hình thuyền nằm dọc đỡ chỗ giáp nối của hai đầu thượng lương ở gian giữa và đầu cụt ở tường vỉ. Đấu hình thuyền này lại tỷ lực trên một đấu vuông. Đấu hình vuông lại được nằm trên một con rường bụng lợn chạy ra hai mái và trên đầu của hai con rường này là nơi tỳ lực đỡ hoành tải của mái trước và mái sau. Ở phía dưới của con rường này được gối lên hai cột trốn qua đấu vuông thót đáy. Hai cột trốn hình vuông đứng trên câu đầu ăn mộng vào câu đầu. Đế đỡ các hoành tải là hệ thống các con rường liên tiếp chồng lên nhau ăn mộng vào trụ trốn (2 rường). Phía dưới câu đầu là hai kẻ chuyên được ăn mộng vào thân cột lớn, đuổi kẻ nằm trên xà lòng. Hai kẻ này đỡ các ván nong dày có đục các lỗ hổng để làm chỗ đứng chân cho các hành mái (đòn tay).
Ở bên dưới câu đâu là hệ thống xà lòng làm nhiệm vụ như những quá giang, liên kết các vì để tạo nên một khung gỗ vững chắc. Bên dưới xà lòng lại có một hệ thống kẻ chuyền nữa ăn mộng vào xà lòng và đuôi kẻ được gác trên hệ thống một con ở bức tường đốc ngăn cách hiện và nhà trong ở mái trước, còn ở mái sau là tương đốc. Ở trên các kẻ chuyền này là những ván nong cũng được đục lỗ để làm chỗ đứng cho các hoành mái. Các kẻ này cong lên phía trên nhằm tạo nên sự khoẻ khoắn để đỡ mái nhà. Liên kết cuối cùng là một bầy cổ ngỗng từ cột hiện trong ăn mộng vào đầu cột hiên ngoài nằm dưới xà ngang của hiên. Các bẩy cổ ngỗng này không có khả năng chịu lực cao vì vậy mà phía trong tàu mái (giọt gianh) người ta bố trí một hàng cột hiên nữa để đỡ các bẩy cổ ngỗng. Các kẻ được ăn mộng vào cột hiên và được tạo tác cong lên để các tàu mái tạo nên sự vững chắc của ngôi nhà.
Trên đây là kết cấu chung của hai vì kèo hồi , còn hai vì kèo giữa nhìn chung cơ bản giống nhau, chỉ có khác vì kèo này do nằm ở giữa vì thế nó ảnh hưởng đến diện tích sử dụng của ngôi nhà, đồng thời cũng để làm tăng thêm sự vững chắc của ngôi nhà nên hệ thống vì kèo này được cấu trúc theo kiểu “vì kèo, cột trốn” ở phía trước. Trong một vì kèo như vậy thì cột ở mái trước được thay thế bằng hệ thống cột trốn đứng trên xà lòng trên một đấu vuông.
Nhìn chung về cơ bản kết cấu kiến trúc của ngôi nhà còn giữ được diện mạo tương đối nguyên vẹn, tuy chỉ có các hoành tải trước đây được làm bằng gỗ lim xẻ vuông, nay đã được thay thế bằng luồng.
Về nghệ thuật trang trí: Đây là một ngôi nhà có kiến trúc đẹp của một gia đình khá giả ở vùng nông thôn miền Bắc Trung bộ Việt Nam. Phần trang trí trên các kẻ bẩy ở mái hiên được chạm khắc hình hoa lá: lá cúc, cây thông, hoa mai, tinh xảo, đã tạo nên sự mềm mại uyển chuyển và vui mắt của công trình.
Ba chuông cửa bức bàn ở ba gian giữa đã bị hư hỏng, chỉ còn lại hệ thống bạo, khung.
Tóm lại: Qua kiến trúc như đã mô tả ở trên, rõ ràng ngôi nhà có lịch sử xây dựng cuối thời Nguyễn. Kiến trúc hiện thời chưa có sự thay đổi gì lớn, chỉ trừ phần mái và hệ thống hoành tải được thay thế qua các lần tu sửa.
Loại di tích:
Nhà ông Nguyễn Đức Thuần là một công trình kiến trúc gỗ dân gian điển hình, vì thế ngoài giá trị là một di tích cách mạng, nó còn có ý nghĩa văn hoá độc đáo.